Vùng lãnh hải rộng bao nhiêu hải lý và tính từ đâu?

Lãnh hải là gì? Cho đến nay, nhiều người vẫn chưa hiểu nghĩa của “vùng biển”, “vùng biển” hay “lãnh hải” để sử dụng cho đúng. Vậy lãnh hải rộng bao nhiêu và từ đâu ra? Bài viết này chúng tôi xin chia sẻ một số kiến thức để hiểu rõ hơn về lãnh hải là gì? Chiều rộng của lãnh hải là bao nhiêu? Mời các bạn cùng tham khảo.

Lãnh hải là một nội dung kiến thức trong môn Giáo dục Quốc phòng 11. Dưới đây là một số nội dung kiến thức các em có thể tham khảo thêm về lãnh hải.

1. Trắc nghiệm Giáo dục quốc phòng 11

Lãnh hải rộng bao nhiêu và từ đâu đến?

A. 12 hải lý tính từ đường cơ sở đo chiều rộng lãnh hải

B. 24 hải lý tính từ đường cơ sở đo chiều rộng lãnh hải

C. Cách vùng đặc quyền kinh tế 12 hải lý.

D. Cách bờ biển 12 hải lý.

Câu trả lời đúng: A. 12 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải

2. Lãnh hải là gì?

Lãnh hải là một vùng ven biển nằm bên ngoài và tiếp giáp với vùng nội thủy của một quốc gia ven biển

Theo luật biển quốc tế hiện đại, “lãnh hải” được gọi là “lãnh hải” (tiếng Anh: Territorial Sea, tiếng Pháp: Merritoriale), không phải “vùng biển” hay “vùng biển” nói chung. Đó là vùng biển ven bờ xa hơn và tiếp giáp với lãnh thổ đất liền hoặc vùng nội thủy của một Quốc gia ven biển, có chiều rộng xác định được đo từ đường cơ sở của Quốc gia ven biển đó.

Đối với một Quốc gia quần đảo, lãnh hải nằm bên ngoài và tiếp giáp với lãnh thổ và vùng nước quần đảo của Quốc gia quần đảo đó.

Đối với các đảo riêng lẻ hoặc trong một quần đảo không phải là một quốc gia quần đảo, nếu nó đáp ứng các tiêu chí quy định tại Điều 121 của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. , nhưng ngoài lãnh hải của Quốc gia này, lãnh hải của mỗi đảo này cũng được xác định như trên.

Chiều rộng của lãnh hải do quốc gia ven biển xác định từ các đường cơ sở phù hợp với các tiêu chuẩn chung do Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định.

Khi gọi “vùng biển Việt Nam”, “vùng biển Việt Nam”, chúng ta hiểu đó là tên gọi chung cho cả vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Khi gọi “lãnh hải Việt Nam”, chúng ta hiểu đó là tên một vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

3. Chiều rộng lãnh hải là gì?

Đối với lãnh hải, việc xác định chiều rộng – khoảng cách từ đường cơ sở đến ranh giới ngoài của lãnh hải có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với quốc gia ven biển mà còn đối với các quốc gia khác. Ngay cả khi đường cơ sở – ranh giới trong của lãnh hải đã được xác định đầy đủ theo quy định của Luật biển quốc tế, nếu Luật biển quốc tế không có quy định thống nhất về chiều rộng lãnh hải, một quốc gia vẫn có thể mở rộng lãnh hải của mình về phía biển. Nếu khoảng cách này quá rộng, quyền và lợi ích của các quốc gia khác sẽ bị ảnh hưởng bởi biên giới biển của quốc gia ven biển. Thực tiễn của các nước cũng như quá trình xây dựng Luật biển quốc tế cho thấy, giai đoạn trước năm 1958, các quy định về chiều rộng lãnh hải được xác định khá đa dạng. Tùy thuộc vào từng quốc gia, chiều rộng lãnh hải đo được từ đường cơ sở có thể giới hạn trong phạm vi 3 hải lý, 5 hải lý…, thậm chí đến 200 hải lý.

Trong số 04 công ước về biển được ký kết năm 1958 (04 Công ước Geneva 1958, bao gồm: Công ước về lãnh thổ và vùng tiếp giáp, Công ước về thềm lục địa, Công ước về biển cả, Công ước về nghề cá và bảo vệ nguồn lợi trên biển cả), mặc dù đã có Geneva 1958 Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp, chiều rộng của lãnh hải không được xác định chính xác. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 24 của Công ước, vùng tiếp giáp lãnh hải không được vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở mà từ đó chiều rộng lãnh hải được tính. Như vậy, cả lãnh hải và vùng tiếp giáp mới có chiều rộng tối đa là 12 hải lý. So với các quy định liên quan của Công ước Geneva 1958, lãnh hải hiện nay được mở rộng hơn nhiều. Từ góc độ thực tiễn, có thể khẳng định rằng lãnh hải 12 hải lý đã tồn tại như luật tục quốc tế trước khi UNCLOS 1982 có hiệu lực, bằng chứng là quy định về chiều rộng lãnh hải của Việt Nam. . các nước ven biển trong đó có Việt Nam. Tập quán quốc tế này đã được pháp điển hóa trong UNCLOS 1982 và nội luật hóa thành luật hàng hải của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, một quốc gia ven biển chỉ có thể xác định chiều rộng tối đa 12 hải lý cho lãnh hải của mình khi vùng biển của quốc gia đó tồn tại độc lập. Nếu có sự chồng lấn hoặc chồng lấn trong vùng biển của các quốc gia khác, các quốc gia liên quan sẽ phải thống nhất việc phân định. Trong trường hợp này, lãnh hải của quốc gia không được rộng quá 12 hải lý.

Ngoài lãnh hải từ bờ biển, các đảo thuộc chủ quyền của Nhà nước ở xa bờ biển có nội thủy, lãnh hải hoặc cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nếu đáp ứng quy định tại Điều 121. . UNCLOS 1982. Đối với rạn san hô thủy triều thấp, nếu khoảng cách từ đất liền hoặc đảo vượt quá chiều rộng của lãnh hải thì chúng sẽ không có lãnh hải của riêng mình.

XEM THÊM TẠI: https://hotelcasanaranja.com/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *